Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, di sản thừa kế được định nghĩa chi tiết tại Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác
Trong đó: Việc xác định tài sản riêng, tài sản chung của người chết trong tài sản với người khác được quy định như sau:
– Tài sản riêng của người chết: Gồm phần tài sản của vợ, chồng có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân,.. (đối với người có vợ, chồng) hoặc tài sản thuộc sở hữu riêng của một người (mà người đó không có vợ, chồng).
– Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác gồm: Phần tài sản chung theo phần trong khối tài sản chung với vợ, chồng hoặc với người khác.
Khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết, gồm: Thời điểm chết sinh học hoặc chết pháp lý (theo quyết định của Tòa án nhân dân).
Như vậy, theo quy định nêu trên, tiền phúng viếng không phải là di sản thừa kế. Có thể thấy, việc xác định di sản thừa kế là căn cứ để xác định giá trị di sản và lợi ích của người hưởng di sản. Đồng thời, cũng là căn cứ để chuyển quyền sở hữu của di sản thừa kế đó từ của người đã chết sang người được hưởng di sản thừa kế.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 658 Bộ luật Dân sự thì chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng là nghĩa vụ được ưu tiên thanh toán đầu tiên trong các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế. Vì vậy, nếu người chết có để lại nghĩa vụ tài sản phải thực hiện thì tiền phúng viếng sẽ được ưu tiên sử dụng cho việc thanh toán các khoản tiền thuộc nghĩa vụ này.
- Theo Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được quy định như sau:
– Người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản được phân chia di sản thừa kế trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong đó:
Nếu chưa chi di sản thừa kế thì nghĩa vụ tài sản của người chết sẽ do người quản lý di sản thừa kế thực hiện sau khi đã được người thừa kế hợp pháp thỏa thuận trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Nếu di sản đã chia cho mỗi người thừa kế thì những người này thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi phần di sản được nhận từ di sản thừa kế trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trên thực tế, tiền phúng viếng sẽ được gia đình dùng cho việc chi trả chi phí mai táng người chết, phần còn dư sẽ thuộc về gia đình có người chết.
Trên đây là toàn bộ phần tư vấn của chúng tôi về Vấn đề “Tiền phúng điếu có phải là di sản thừa kế hay không?” Mọi vướng mắc cần tư vấn, vui lòng liên hệ qua số điện thoại hoặc zalo số: 0983957940
- LY HÔN THEO YÊU CẦU MỘT BÊN?
- Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp nào?
- Lưu ý: Trọn bộ điểm mới của Luật Đất đai 2024
- Ly hôn với chồng là lao động bất hợp pháp tại nước ngoài?
- Án phí, lệ phí Tòa án kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.