Quyết định 39/QĐ-CA ngày 24/02/2023 về công bố án lệ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. theo đó, bổ sung một số án lệ về hình sự như sau:
1. Án lệ 57/2023/AL1 về hành vi gian dối nhằm tiếp cận tài sản trong tội “Cướp giật tài sản”
– Tình huống án lệ:
Bị cáo dùng thủ đoạn gian dối để người quản lý tài sản chuyển giao tài sản cho bị cáo, sau đó lợi dụng sơ hở để nhanh chóng tẩu thoát.
– Nội dung vụ án:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Thành Quốc B nảy sinh ý định cướp giật tài sản. B mua số sim điện thoại khuyến mãi rồi tạo tài khoản trên ứng dụng bán hàng trực tuyến qua mạng, đặt mua loại điện thoại Iphone 11. Để thực hiện hành vi phạm tội, B còn chuẩn bị một số xấp tiền (mỗi xấp tiền B để một tờ tiền thật phía trên, một tờ tiền thật phía dưới (mệnh giá từ 50.000 đồng đến 500.000 đồng, ở giữa xấp tiền thì B để tiền âm phủ và được cột lại bằng dây thun). Khi đến gặp người giao hàng để nhận hàng, B sẽ lấy những xấp tiền được chuẩn bị từ trong túi sách đeo chéo ra để cho người giao hàng thấy, tạo lòng tin cho người giao hàng rồi cất lại vào trong túi. Sau khi kiểm tra hàng xong, B sẽ để gói hàng xuống ba ga xe của xe gắn máy Lead BS: 59L1-88433, rồi lấy xấp tiền do B chuẩn bị từ trong túi ra đưa cho người giao hàng. Lợi dụng sơ hở khi người giao hàng tháo dây thun kiểm tiền thì B tăng ga điều khiển xe bỏ chạy để chiếm đoạt điện thoại di động.
Kết quả điều tra xác định Nguyễn Thành Quốc B thực hiện 05 vụ chiếm đoạt tài sản cụ thể như sau:
Vụ 1: Đầu tháng 01/2020, Nguyễn Thành Quốc B sử dụng thuê bao số 0563667801 để đăng ký một tài khoản mua hàng trên trang thương mại điện tử L với tên là Trần Thanh T1 và đặt mua một điện thoại di động Apple Iphone 11, màu tím, dung lượng 128GB với giá 22.017.700 đồng (Hai mươi hai triệu không trăm mười bảy nghìn bảy trăm đồng) địa chỉ giao nhận hàng là tại số 158/A49 đường P, phường H, quận T, Tp. Hồ Chí Minh.
Khoảng 16 giờ ngày 11/01/2020, B nhận được điện thoại của anh Phạm Ngọc T (là nhân viên giao hàng của Công ty S) có nhiệm vụ đi giao đơn hàng mã số S60RT0000206084VN bên trong là 01 (một) điện thoại di động Apple Iphone 11, 128GB, màu tím, IMEI: 356571101877587. B điều khiển xe máy Honda Lead BS: 59L1-88433 chạy đến địa chỉ trên để chờ anh T. Sau khi anh T đến, B yêu cầu anh T cho kiểm tra gói hàng trước nhưng anh T không đồng ý. Sau đó, B nói với anh T đứng đợi một lát để đi đón xe tải chở hàng cho gia đình rồi quay lại. Khoảng 03 phút sau, B quay lại và đồng ý nhận gói hàng, anh T đưa gói hàng cho B đồng thời B đưa một bọc nylon chứa tiền bên trong (B sắp xếp 02 tờ tiền thật có mệnh giá 200.000 đồng đặt ở mặt trên và mặt dưới, ở giữa là tiền âm phủ) đã chuẩn bị từ trước cho anh T để kiểm tra. Xấp tiền này B đã mua từ trước. B dùng dây thun buộc xấp tiền, dùng túi nylon cuộn xung quanh và dùng băng keo trắng quấn nhiều lớp phía ngoài xấp tiền. Khi anh T đang mở túi nylon để lấy tiền ra kiểm tra thì B mở khóa xe rồi giả vờ nói chạy ra đầu hẻm xem xe tải chở hàng đã đến chưa. Anh T chưa kịp phản ứng gì thì B nhanh chóng điều khiển xe gắn máy tẩu thoát.
Vào tối cùng ngày, B rao bán điện thoại di động vừa chiếm đoạt được trên mạng Internet và để lại số điện thoại 0938355534 để người mua liên lạc. Khoảng 02 ngày sau có một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) hỏi mua điện thoại trên với giá 18.000.000 đồng, B đồng ý và hẹn gặp người này tại trước cổng Công viên Đ, phường A, quận M để giao điện thoại. Đối với sim thuê bao 0563667801, B đã vứt bỏ trên đường (không rõ địa chỉ), số tiền này B đã tiêu xài cá nhân hết.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 941/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 27/05/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú xác định 01 (một) điện thoại di động hiệu Apple Iphone 11, 128GB, màu tím, IMEI: 356571101877587 trị giá 22.310.000 đồng.
Vụ 2: Ngày 20/01/2020, Nguyễn Thành Quốc B sử dụng điện thoại Redmi lên trang mạng của T.com đặt mua 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu Gold, giá tiền 37.990.000 đồng. B cung cấp thông tin người mua hàng tên Hoàng Anh T2, số điện thoại liên hệ 0563667873 và nơi giao hàng tại số 04 đường L, phường N, quận T. Đến khoảng 13h30 ngày 21/01/2020, anh Nguyễn Lê Thanh D (là nhân viên giao hàng công ty cổ phần T) mang theo 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu Gold, IMEI: 353923106182211 lấy từ cửa hàng đến giao hàng cho B tại số 04 đường L, phường N, quận T và thu tiền 37.990.000 đồng. Khi đến địa điểm giao hàng, anh D gặp B điều khiển xe Lead BS: 59L1-88433 tại trước số 4 đường L, phường N, quận T thì B nói anh D đẩy xe qua địa chỉ số 07 đường L, phường N, quận T để giao nhận hàng, B lấy lý do tránh đường cho xe tải vào nhà. Tại trước nhà số 07 đường L, phường N, quận T, D đưa cho B 01 (một) hộp điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, 256GB , Gold, IMEI: 353923106182211, còn nguyên seal đồng thời B đưa cho D 01 (một) xấp tiền mệnh giá 50.000 đồng Việt Nam (gồm 150 tờ) nói D đếm lại. Lúc này, B để hộp điện thoại xuống dưới sàn để chân phía trước của xe Lead, đồng thời mở khóa xe. Lợi dụng lúc D đang đếm tiền không để ý, B nhanh chóng tăng ga xe điều khiển xe bỏ chạy thoát. D chạy bộ đuổi theo nhưng không kịp nên đã lên Công an phường Phú Thạnh trình báo sự việc.
B mang điện thoại bán lại cho anh Lưu Thành N (là chủ cửa hàng điện thoại N số 31/15 đường U, phường G, quận T) được số tiền 31.500.000 đồng. Do không có tiền mặt nên N dùng tài khoản ngân hàng V số: 0721000616605 chuyển số tiền này vào tài khoản ngân hàng C của B số 10236697. Số tiền này B đã tiêu xài cá nhân hết.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 763/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 29/04/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú xác định: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB trị giá 37.990.000 đồng.
Vụ 3: Ngày 28/01/2020, B sử dụng điện thoại Redmi lên trang mạng C.com.vn để đặt mua 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB, giá tiền 34.990.000 đồng. B cung cấp thông tin người nhận hàng tên Hoàng Anh T2, số điện thoại liên hệ: 0563667873, địa chỉ giao hàng tại trước nhà số 04 đường L, phường N, quận T.
Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 29/01/2020, anh Trần Anh T3 (là nhân viên cửa hàng điện thoại C) đến địa điểm giao hàng số 04 đường L, phường N, quận T gặp B và đưa cho B kiểm tra 01 (một) hộp điện thoại Iphone 11 Pro Max, 256GB, màu xanh, số IMEI: 353923106193341, còn nguyên seal. B kiểm tra hộp điện thoại và có hỏi T3 cách sử dụng điện thoại, tình trạng của điện thoại. Sau đó, B lấy lý do là tránh đường cho xe tải vào nhà nên nói T3 cùng di chuyển sang bên đường để giao dịch. B để hộp điện thoại xuống dưới sàn để chân phía trước của xe Lead, mở khóa xe, ngồi trên xe dùng chân đẩy xe còn T3 dắt bộ xe đến trước địa chỉ số 07 đường L, phường N, quận T để giao dịch. Tại đây, B lấy trong túi xách đeo chéo ra 01 (một) xấp tiền mệnh giá 50.000 đồng Việt Nam (gồm 50 tờ do B chuẩn bị từ trước) đưa cho T3 nói T3 kiểm tra lại tiền. Khi T3 đang đếm tiền thì B lấy trong túi xách ra xấp tiền do B chuẩn bị trước đó (phía trên để 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng Việt Nam, ở giữa để 100 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng tiền âm phủ, phía dưới để 01 (một) tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng Việt Nam) ném về phía của T3 rồi nhanh chóng nổ máy xe tăng ga bỏ chạy. T3 đuổi theo nhưng không kịp nên đã đến Công an phường Phú Thạnh trình báo sự việc.
Sau đó, B mang điện thoại chiếm đoạt được đến cửa hàng điện thoại N số 31/15 đường U, phường G, quận T bán lại cho anh Lưu Thành N với giá 31.000.000 đồng. Do không có tiền mặt nên N dùng tài khoản ngân hàng V số: 0721000616605 chuyển số tiền này vào tài khoản ngân hàng C của B số 10236697. Số tiền này B đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 763/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 29/04/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú xác định 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB trị giá 34.990.000 đồng.
Vụ 4: Ngày 29/01/2020, B sử dụng điện thoại Redmi đăng nhập vào ứng dụng mua bán hàng qua mạng K để đặt mua 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB, giá tiền 35.990.000 đồng. B cung cấp thông tin người nhận hàng tên To Hoang G, số điện thoại liên hệ: 0563667801, địa chỉ giao hàng 46 đường T, phường E, quận T.
Khoảng 14 giờ ngày 30/01/2020, anh Trần Huệ C đến kho hàng của công ty K nhận đơn hàng 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 Pro Max, 256GB, Gold, số IMEI: 353909101879836 giao cho khách tên To Hoang G thu tiền theo đơn hàng 35.990.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì anh C đến địa chỉ giao hàng số 46 đường T, phường E, quận T. Anh C điện thoại vào số 0563667801 thì gặp B, thông báo giao hàng theo đơn đặt hàng tên To Hoang G. Lúc này, B nói anh C thay đổi địa điểm giao hàng đến số 86 đường M, phường E, quận T (do B thấy tại số 46 đường T, phường E, quận T đường đông người). Sau đó anh C đến trước số 86 đường M, phường E, quận T thì B điều khiển xe gắn máy Lead BS: 59L1-88433 đến. Tại đây, anh C đưa cho B kiểm tra gói hàng mà B đặt trước đó của công ty K. B tháo gói hàng ra thì thấy bên trong có 01 (một) hộp điện thoại Iphone nguyên seal, đúng với thông tin B đặt hàng. Sau khi kiểm tra xong B xác nhận với anh C đúng là sản phẩm B đặt, nhưng B nói là không đủ tiền và kêu anh C đứng đợi để B đi rút thêm tiền đồng thời B đưa hộp điện thoại lại cho anh C. B điều khiển xe đi được 5 phút thì quay trở lại. B ngồi trên xe Lead, dừng phía trước đầu xe của anh C nên anh C mang gói hàng đến cho B kiểm tra thêm lần nữa xác nhận đúng sản phẩm. B bỏ hộp điện thoại vào trong túi nylon màu vàng được treo ở móc treo phía trước xe. B mở túi xách đeo chéo vai lấy ra 02 (hai) xấp tiền mà B chuẩn bị từ trước 01 xấp tiền gồm 27 tờ mệnh giá 50.000 đồng Việt Nam; 01 xấp tiền gồm: 01 tờ mệnh giá 500.000 đồng Việt Nam phía trên, ở giữa là tiền âm phủ, ở dưới cùng để tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. B đưa cho anh C xấp tiền mệnh giá 50.000 đồng nói anh C đếm lại. Trong lúc anh C đang đếm tiền không để ý, B nhanh chóng mở khóa xe nổ máy điều khiển xe bỏ chạy ra hướng đường H tẩu thoát. Anh C đuổi theo nhưng không kịp nên đã đến Công an phường Hiệp Tân trình báo.
Sau đó, B mang điện thoại vừa cướp giật được đến cửa hàng điện thoại N số 31/15 đường U, phường G, quận T bán cho chị Lê Hoàng L, (là nhân viên của cửa hàng) với giá là 31.000.000 đồng. Do không đủ tiền mặt nên chị L sử dụng tài khoản ngân hàng T số 19021002760019 chuyển số tiền 26.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng T của B số 19033815560015 và đưa cho B thêm 5.000.000 đồng tiền mặt. Số tiền này B đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 763/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 30/01/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú xác định 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 256GB trị giá 35.990.000 đồng.
Vụ 5: Khoảng 16 giờ 00 ngày 04/02/2020, B sử dụng điện thoại Redmi đăng nhập vào ứng dụng bán hàng qua mạng L và đăng ký mua 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro max, màu xanh, dung lượng 512Gb với giá tiền là 44.001.000 đồng. B cung cấp thông tin người mua hàng tên Tô Hoàng G, số điện thoại liên hệ 0563667873 và nơi giao hàng tại số 04 đường L, phường N, quận T.
Đến khoảng 8 giờ ngày 05/02/2020, anh Trần Thế V (nhân viên giao hàng) đến công ty X nhận 01 (một) gói hàng (số đơn hàng LRT0002895925, tên hàng hóa Apple Iphone 11 Pro Max, kèm sạc nhanh 18W), tiền thu hộ là 44.001.000 đồng giao cho khách hàng Tô Hoàng G, số điện thoại liên hệ 0563667873 và nơi giao hàng tại số 04 đường L, phường N, quận T. Anh V điện thoại liên lạc số 0563667873 thì gặp B và thông báo cho B biết sẽ giao hàng trong buổi sáng, B đồng ý. Đến khoảng 10 giờ 50 phút cùng ngày, V điện thoại cho B nói đã đến địa điểm giao hàng, B nói anh V đứng đợi. B điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Lead biển số 59L1-88433 đến trước số 07 đường L, phường N, quận T thì gặp V đang đứng đợi. Lúc này, B lấy trong túi xách ra 02 (hai) xấp tiền chuẩn bị từ trước (trong đó 01 (một) xấp tiền để 01 (một) tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng phía trên, ở giữa để tiền âm phủ, ở dưới cùng để 01 (một) tờ mệnh giá 100.000 đồng; xấp tiền còn lại là tiền thật có nhiều mệnh giá từ 50.000 đồng đến 500.000 đồng) B lấy từ trong túi xách đeo chéo vai ra cầm trên tay rồi bỏ lại vào trong túi xách mục đích cho anh V thấy, tạo lòng tin cho anh V. Sau đó, anh V lấy 01 (một) gói hàng (số đơn hàng LRT0002895925, tên hàng hóa Apple Iphone 11 Pro Max, kèm sạc nhanh 18 W) đưa cho B và đề nghị phải thanh toán tiền trước khi kiểm tra hàng. B không đồng ý và yêu cầu phải được kiểm tra hàng trước mới đưa tiền nên anh V điện thoại về công ty xin ý kiến. Lợi dụng lúc V không để ý, B để gói hàng xuống dưới sàn để chân phía trước của xe gắn máy Lead đồng thời mở khóa xe và nói với anh V để đẩy xe vào lề rồi tiếp tục giao dịch. B ngồi trên xe đẩy xe lên phía trước rồi bất ngờ tăng ga điều khiển xe tẩu thoát. Anh V tri hô và chạy bộ đuổi theo nhưng không kịp. B điều khiển xe qua nhiều tuyến đường, khi đến đối diện số nhà 1446 đường S, phường A, quận T thì B dừng xe lại xé bỏ bao bì giao hàng của công ty L. B thấy bên trong là 01 (một) hộp điện thoại Iphone 11 Pro Max trên hộp điện thoại có ghi thông tin MWHR2VN/A; Iphone 11 Pro Max, Midnight Green, 512 Gb, seri No: FK1ZJ1G5N715; IMEI: 35392525102781896 con nguyên seal niêm phong FPT.
B mang điện thoại vừa cướp giật được đến cửa hàng điện thoại N số 31/15 đường U, phường G, quận T để bán. Chị Lê Hoàng L, (là nhân viên của cửa hàng) đồng ý mua điện thoại với giá tiền là 33.500.000 đồng. Do không đủ tiền mặt nên L sử dụng tài khoản ngân hàng T số 19021002760019 chuyển số tiền 33.500.000 đồng vào tài khoản ngân hàng T của B số 19033815560015. B đã giao nộp số tiền này cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 763/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 29/04/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú xác định 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro max, màu xanh, dung lượng 512Gb trị giá 43.990.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2020/HS-ST ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Quốc B phạm tội: “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Quốc B 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2020.
Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Ngày 25/9/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Kháng nghị phúc thẩm số 46/QĐ-VKS-P7 kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Quốc B về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy giữa bị cáo B và các bị hại đã tiến hành giao tiền, nhận tài sản sau khi bị cáo dùng thủ đoạn gian dối nêu trên làm cho các bị hại nhầm tưởng số tiền B giao là tiền thật để mua điện thoại di động và bị hại tin tưởng nên đã giao hàng để bị cáo chiếm đoạt tổng trị giá tài sản 175.270.000 đồng. Mặt khác, bị cáo thực hiện liên tiếp 05 vụ chiếm đoạt tài sản, không nghề nghiệp và dùng tiền có được từ việc bán tài sản chiếm đoạt làm nguồn sống chính là trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Do đó, đề nghị chấp nhận Kháng nghị phúc thẩm số 46/QĐ-VKS-P7 ngày 25/9/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Quốc B về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự với mức hình phạt như Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.
Bị cáo không tự bào chữa và không tham gia tranh luận. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.
2. Án lệ 58/2023//AL1 về tình tiết định khung hình phạt tại điểm c khoản 3 Điều 244 Bộ luật Hình sự
– Tình huống án lệ:
Bị cáo có hành vi vận chuyển 05 cá thể hổ và 01 bộ phận không thể tách rời sự sống của cá thể hổ thứ 06.
– Nội dung vụ án:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 15 phút ngày 07/01/2018, tại đoạn đường thuộc Km 114 + 710 Quốc lộ M, thuộc phường B, thành phố L, Tổ công tác Phương án 12, Phòng PC67 Công an tỉnh Quảng Ninh kiểm tra xe ô tô khách biển kiểm soát (BKS): 14B-019.26, do anh Nguyễn Văn H điều khiển, phát hiện bắt quả tang Hoàng Đình Q là khách đi trên xe vận chuyển: 01 hộp bìa các tông trong đó có 03 cá thể động vật còn sống nghi là cá thể khỉ; 01 hộp bìa các tông bên trong có 05 cá thể động vật đông lạnh (nghi là cá thể hổ con) và 01 bộ phận động vật (nghi là bộ phận sinh dục của cá thể hổ), trọng lượng 01 kg; một hộp bìa các tông bên trong có 10 bộ phận động vật (nghi là túi mật cá thể bò tót); một bọc nhỏ màu đen, bên trong có 20 bộ phận động vật (nghi là răng hổ); 03 bao (nghi là vẩy tê tê) có trọng lượng lần lượt là 20kg, 10kg, 20kg; một thùng xốp màu trắng bên trong có nhiều miếng thịt đông lạnh nghi là thịt hổ, được cho vào 03 túi nilon có trọng lượng là 41 kg thịt đông lạnh đã được cắt thành từng miếng.
Ngoài ra, còn thu của Q: 02 điện thoại di động, trong đó: 01 chiếc Nokia model RM-1134 màu đen, số IMEI 355127079886596, trong gắn SIM số 091.556.1306; 01 chiếc Iphone 7 màu đỏ, số IMEI 353804089230427, trong gắn SIM số 096.142.1102 và 2.000.000 đồng.
Tại bản Kết luận giám định số 51/STTNSV ngày 15/01/2018 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, kết luận:
– 03 cá thể động vật trong hộp bìa các tông còn sống là loài khỉ đuôi lợn có tên khoa học là Macaca leonica. Loài khỉ đuôi lợn Macaca leonica thuộc nhóm IIB- thực vật rừng, động vật rừng hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, theo quy định tại Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ.
– 05 cá thể động vật đông lạnh đã chết, sau khi giám định hình thái và ADN là loài hổ có tên khoa học Panthera tigris;
– 01 kg bộ phận sinh dục của cá thể động vật, sau khi giám định hình thái và ADN là bộ phận sinh dục đực của loài hổ có tên khoa học Panthera tiger, là bộ phận không thể tách rời sự sống;
– 41 kg (bốn mươi mốt ki-lô gram) thịt đông lạnh sau khi giám định AND là của loài hổ có tên khoa học Panthera tigris. Nếu tổng trọng lượng trên là của 1 cá thể thì sẽ dẫn đến cá thể hổ không thể tồn tại. Loài hổ Panthera tigris thuộc Phụ lục I, Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ;
– 50 kg (năm mươi ki-lô gram) mẫu vật giám định là bộ phận vẩy của loài tê tê có tên khoa học là Manis gigantea. Nếu số vẩy trên là của nhiều cá thể thì không ảnh hưởng đến sự sống. Loài tê tê có tên khoa học là Manis gigantea có tên trong Phụ lục I, Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư số 04/2017/TT-BNNPTNT ngày 24/02/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tại bản kết luận giám định động vật bổ sung số 101/STTNSV ngày 29/02/2018 của Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật – Viện hàn lâm và khoa học công nghệ Việt Nam, thể hiện:
– 20 răng nanh là của loài thú ăn thịt. Kết quả giám định AND của 01 mẫu răng nanh của loài chó, có tên khoa học Canis lupus familiaris, loài động vật nuôi thông thường.
– 05 bộ phận kích thước nhỏ, màu đen là túi mật, giám định AND của 01 (mẫu) là túi mật của loài chó, có tên khoa học Canis lupus familiaris, là loài động vật nuôi thông thường.
– 05 bộ phận kích thước lớn, dẹp màu hơi vàng là túi mật, giám định ADN của 01 (mẫu) là túi mật của loài bò, có tên khoa học Bos indicus, là loài động vật nuôi thông thường.
Cáo trạng số 169/CT-VKSHL, ngày 06/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Hoàng Đình Q về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 244 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Q mức án từ 08 năm đến 09 năm tù, tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 2.000.000 đồng tịch thu phát mại sung công quỹ 02 chiếc điện thoại di động.
Các người làm chứng là anh Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Minh H1 có lời khai phù hợp với nhau với nội dung: Các anh là lái, phụ xe khách BKS 14B-019.26 chạy tuyến thành phố V – thành phố M. Khoảng 18h15ph xe của các anh xuất bến từ thành phố V đi thành phố M. Khi xe chạy đến cầu vượt N, thành phố Vinh thì đón 01 thanh niên, sau này biết tên là Hoàng Đình Q mang theo 03 túi nilon màu đen và khoác trên vai 01 ba lô màu đen. Khi xe chạy đến khu vực huyện D, Nghệ An thì thanh niên đó yêu cầu dừng xe và chuyển lên xe 03 thùng các tông. Khi xe chạy đến khu vực huyện Q, Nghệ An thì thanh niên đó lại yêu cầu dừng xe và tiếp tục chuyển lên xe 01 hộp xốp. Đến khoảng 03 giờ 15 phút khi xe chạy đến khu vực phường B thì bị công an kiểm tra, công an yêu cầu thanh niên kia mở hết số hàng để kiểm tra, thấy rằng:
– 03 túi nilon màu đen bên trong chứa các bộ phận động vật.
– 01 thùng các tông chứa 05 con hổ con và 01 bộ phận sinh dục động vật.
– 01 thùng các tông chứa 03 con khỉ con.
– 01 thùng các tông nhỏ chứa nhiều túi mật động vật.
– 01 hộp xốp chứa các miếng thịt động vật.
– 01 bọc nhỏ trong túi xách của thanh niên chứa nhiều răng động vật.
3. Án lệ 59/2023/AL1 về lỗi cố ý gián tiếp trong vụ án “Giết người”
– Tình huống án lệ:
Bị cáo dùng hung khí nguy hiểm tấn công bị hại. Bị hại điều khiển xe mô tô bỏ chạy, bị cáo tiếp tục truy đuổi làm bị hại lo sợ phải tăng tốc bỏ chạy. Khi bị hại bị tai nạn thì bị cáo mới dừng việc truy đuổi. Bị hại tử vong trên đường đi cấp cứu.
– Nội dung vụ án:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 06/9/2019, Triệu Văn M và Đặng Văn T đến dự đám cưới ở thôn K, xã T, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Tại đám cưới, M nhìn thấy Nguyễn Ngọc V đi cùng Nguyễn Thị L sinh năm 2004, trú tại thôn T, xã N, huyện B, tỉnh Yên Bái. Do trước đó, khi M đi chơi bên xã C bị các thanh niên tại đây đánh, nên khi thấy V là người xã C sang, M đã rủ T “Tý anh em mình đánh thằng V nhé”.
Vì trước đó, T có gặp và mời rượu V nhưng V không uống, T cho rằng V đã coi thường mình nên đồng ý và nói “Để ý nó khi nào về thì bảo anh”. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Nguyễn Ngọc V lấy xe máy chở theo Nguyễn Thị L đi về theo đường liên thôn. T và M cũng lấy xe máy của mình, mỗi người một xe đi theo với mục đích đánh V. T hỏi M “Có đồ chưa?” M trả lời “Có rồi”, M cũng hỏi T “Có đồ không?”, T trả lời “Có”.
M và T đuổi theo khoảng 500 mét thì vượt qua xe V, đến đoạn đường vắng người thuộc địa phận thôn Đ, xã T, huyện Y, tỉnh Yên Bái, M và T dừng lại chặn xe của V, T mở cốp xe lấy chiếc túi khoác bên trong có chiếc gậy (loại gậy ba khúc bằng kim loại, có tay cầm mầu đen, chiều dài tối đa khi rút ba khúc ra là 64 cm, khi thu lại là 24 cm, đường kính 2,5 cm, mũi gậy hình tròn đường kính là 1,5 cm) đeo lên người. Khi V và L xuống xe, M nói “Sao mày về nhanh thế”, còn T nói “Hôm qua tôi mời rượu bạn không uống, bạn khinh tôi à”, V trả lời “Tối qua mấy ông đánh tôi”, V vừa nói xong M lao vào dùng tay đấm nhiều nhát vào mặt V, rồi cùng vật lộn giằng co đánh nhau trên đường, M ngồi đè lên người V và dùng tay đấm vào mặt V, còn T lao vào đá hai cái vào chân V.
Lúc này V vùng được dậy đấm vào mặt M, nên M ôm V đẩy vào khu vực taluy dương cạnh đường, T lấy chiếc gậy để trong túi khoác ra vụt một phát vào bắp tay trái của V. Lúc đó M cũng lấy đoạn gậy mang theo trên người ra (loại gậy ba khúc bằng kim loại, có tay cầm màu đen, chiều dài tối đa khi rút ba khúc ra là 31 cm, đường kính 1,0 cm) vụt một phát trúng vào ngực V, M tiếp tục vụt một phát nữa theo hướng từ trái sang phải, từ trên xuống dưới vào mặt V, rồi vụt ba phát nữa vào người V và làm rơi mất gậy tại đây.
Bị đánh đau, V bỏ chạy theo hướng đường quay lại đám cưới, M đuổi theo túm áo của V lôi lại nhưng V vùng thoát được, thì T chạy đến gần dùng gậy sắt vụt tiếp một phát vào phần lưng của V rồi V bỏ chạy thoát. T và M quay lại chỗ để xe, nổ máy bật đèn tiếp tục truy tìm. Lúc này, chị L cũng đi tìm và đã thấy V nằm ở ven đường cách chỗ bị đánh khoảng 100 mét. V nói với L “Anh mệt lắm rồi, anh kiệt sức rồi”. Khi thấy ánh đèn xe của T và M đi qua, V tự đứng dậy và được L khoác tay dìu V đi lên đường và tự đi bộ về phía xe của mình. Cùng lúc này T và M đã quay xe lại, phát hiện thấy V đã khởi động xe chở theo L đi được khoảng 02 mét thì T và M tăng ga đuổi theo, V thấy vậy cũng tăng ga bỏ chạy. Khi đuổi theo, T vẫn cầm theo gậy sắt còn M hô to “Đ** mẹ chúng mày đứng lại”. Đuổi theo được khoảng 100 mét thì T bị ngã xe, một mình M tiếp tục đuổi theo. Khi đến đoạn đường xuống dốc thấy V chạy xe với tốc độ cao, chị L đã vỗ vai V nhắc “Đi chậm thôi”, nhưng V không nói gì và không giảm tốc độ. Khi tới ngã ba (cách khu vực bị T và M đánh 1.300 mét) thuộc địa phận thôn 4, xã T, huyện Y, V không kịp xử lý đã lao lên khu vực sân vườn nhà ông Phạm Văn H và bị ngã, M thấy vậy quay xe lại thì gặp T điều khiển xe đi đến, M bảo “Thằng V bị ngã xe rồi”, rồi cả hai cùng đi về. Còn Nguyễn Ngọc V được người dân đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong ngay sau đó.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 79/TT ngày 13/9/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Yên Bái kết luận:
– Nguyên nhân chết của Nguyễn Ngọc V: Vỡ phức tạp xương hộp sọ vùng thái dương phải.
– Cơ chế hình thành thương tích: Vỡ xương hộp sọ vùng thái dương phải do tác động một lực mạnh với vật tày có tiết diện lớn theo hướng trực diện gây nên.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 112/TgT, ngày 14/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Yên Bái kết luận:
– Xây xát do vùng đỉnh bên phải: 1%; Bầm tím da vùng đuôi mắt bên phải 1%; Xây xát da cánh mũi + Vùng má bên phải: 1%; Xây xát da chính giữa ngực phía dưới khớp ức đòn: 1%; bầm tím da vùng ngực bên phải dưới núm vú: 0%; bầm tím da khuỷu tay phải: 1%; Xây xát bầm tím da vùng mu bàn tay phải: 0%; Xây xát da vùng đùi, vùng gối và mu bàn chân phải 0%.
– Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Ngọc V tại thời điểm giám định qua bản ảnh là: 05% (Năm phần trăm).
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Khu vực ngã ba nơi Nguyễn Ngọc V và Nguyễn Thị L bị ngã xe là đoạn đường có ngã ba, hai chiều không có giải phân cách chiều rộng 3m50, mặt đường có vết miết xước, miết lốp màu đen; vết cày xước trên sân vườn nhà ông Phạm Văn H (tiếp giáp với đường giao thông) có một vết máu không rõ hình thù (kích thước 0,3×0,2m) trên tấm bạt đậy 01 gốc cây khô có kích thước (0,53×0,34m).
Trong giai đoạn sơ thẩm, gia đình các bị cáo Đặng Văn T và Triệu Văn M đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại Nguyễn Ngọc V số tiền 80.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái đã quyết định:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo bị cáo Đặng Văn T, bị cáo Triệu Văn M phạm tội “Cố ý gây thương tích”
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn T 14 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2019; xử phạt bị cáo Triệu Văn M 14 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2019.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 589, Điều 590, Điều 591, Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Triệu Văn M và và bị cáo Đặng Văn T phải liên đới bồi thường cho ông Nguyễn Văn T1 và bà Triệu Thị L1 số tiền 6.340.000 đồng. Phần của bị cáo T là 3.170.000 đồng, phần của bị cáo M là 3.170.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự của các bị cáo đối với chị Nguyễn Thị L, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo; đồng thời kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao kháng nghị hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 16/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái để điều tra, truy tố, xét xử về tội Giết người quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự
– Ngày 19/9/2020, đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Ngọc V là ông Nguyễn Văn T1 và bà Triệu Thị L1 kháng cáo không đồng ý về tội danh và tăng mức bồi thường.
– Ngày 01/10/2020, bị cáo Đặng Văn T và bị cáo Triệu Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
– Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKSTY ngày 29/9/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái đề nghị xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đặng Văn T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đặng Văn T và bị cáo Triệu Văn M đều khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm. Các bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không chấp nhận tăng mức bồi thường.
Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh và điều khoản mà Tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo, nhưng cho rằng mức án của các bị cáo là quá cao; đề nghị cấp phúc thẩm giảm hình phạt vì các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trình bày không đồng ý với tội danh mà Tòa án sơ thẩm xét xử các bị cáo; đề nghị cấp phúc thẩm xét xử các bị cáo với mức hình phạt tù chung thân về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 193 của Bộ luật Hình sự; đề nghị tăng bồi thường thiệt hại, buộc các bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại tổng số tiền là 421.000.000 đồng, xác nhận gia đình các bị cáo đã bồi thường được 80.000.000 đồng.
Kiểm sát viên trình bày quan điểm cho rằng bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo Triệu Văn M và Đặng Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, án sơ thẩm đánh giá vai trò phạm tội của các bị cáo là như nhau là chưa chính xác, vì bị cáo Đặng Văn T chỉ là người bị rủ rê và thực hiện hành vi phạm tội có mức độ ít quyết liệt hơn bị cáo Triệu Văn M. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo T là có cơ sở để chấp nhận. Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Triệu Văn M và kháng cáo thay đổi tội danh, tăng hình phạt của đại diện hợp pháp của bị hại là không có căn cứ để chấp nhận. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, tăng mức bồi thường tổn thất về tinh thần là 100.000.000 đồng, những khoản bồi thường khác đã được cấp sơ thẩm giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần giữ nguyên. Đề nghị căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Trấn Yên và kháng cáo của bị cáo Đặng Văn T; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Triệu Văn M; chấp nhận một phần kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2020/HS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo Đặng Văn T; tăng mức bồi thường tổn thất về tinh thần cho đại diện hợp pháp của bị hại.
Các bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích cho đại diện hợp pháp của bị hại tranh luận giữ nguyên quan điểm. Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo xin được hưởng giảm nhẹ hình phạt.
- LY HÔN THEO YÊU CẦU MỘT BÊN?
- Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp nào?
- Lưu ý: Trọn bộ điểm mới của Luật Đất đai 2024
- Ly hôn với chồng là lao động bất hợp pháp tại nước ngoài?
- Án phí, lệ phí Tòa án kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.